Đầu thế kỷ 20, Hải Phòng trỗi dậy thành trung tâm giao thương sầm uất của Bắc Kỳ, kéo theo làn sóng dân cư đổ về, đặc biệt là tầng lớp lao động. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tăng vọt, nhưng trớ trêu thay, người dân bản xứ lại bị bỏ rơi, không có cơ sở y tế nào dành riêng cho họ. Các bệnh viện hiện hữu chỉ phục vụ binh lính và công chức người Pháp, quay lưng trước những phận đời nghèo khó.
Bất công thay, khi bệnh tật ập đến, người dân bản xứ đành phó mặc cho số phận. Các bệnh truyền nhiễm như kiết lỵ, lao, thương hàn, đậu mùa hoành hành trong các khu dân cư nghèo, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho cả cộng đồng người Việt và người châu Âu.
Bác sĩ Đỗ Mạnh Thắng, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, chia sẻ: “Sự ra đời của bệnh viện bản xứ không chỉ vì lòng nhân ái, mà còn là yêu cầu cấp thiết để kiểm soát dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội và trật tự đô thị”.
Ngày 2/10/1905, chính quyền thuộc địa buộc phải mở Nhà thương bản xứ (Hôpital Indigène) trên bãi đất trống phía tây thành phố, tận dụng những lán trại tạm bợ. Tuy nhiên, quy mô ban đầu quá nhỏ bé, điều kiện điều trị còn hạn chế. Năm 1906, chính quyền buộc phải mở rộng cơ sở vật chất với 16 khoa nội, khoa ngoại, nhà bếp, phòng tắm và khu vệ sinh riêng biệt. Thậm chí, còn có khu điều trị nội trú cho những người nghèo không có khả năng chi trả.
Năm 1927, chính quyền xây thêm khoa nội, khoa ngoại và phòng đẻ. Đến năm 1945, Nhà thương bản xứ chỉ có 13 nhân viên y tế, từ chủ nhiệm khoa đến y tá, cùng với Giám đốc Ty Vệ sinh thành phố.
Dù cơ sở vật chất nghèo nàn, sự ra đời của Nhà thương bản xứ Hải Phòng vẫn là bước chuyển mình quan trọng. Từ đây, hệ thống y tế công lập chính thức được hình thành, là nơi khám chữa bệnh, đào tạo và làm việc đầu tiên của nhiều thế hệ y bác sĩ người Việt.
Trong những năm đầu thành lập Nhà thương bản xứ, đội ngũ thầy thuốc chủ yếu là sĩ quan quân y người Pháp. Về sau, nhiều viên chức người Việt tham gia, họ vừa chăm sóc người bệnh, vừa tham gia phong trào cách mạng, tiêu biểu là nữ hộ sinh nội trú Nguyễn Thị Vinh. Bà Vinh được kết nạp vào Thanh niên cách mạng đồng chí hội, sinh hoạt ghép với tổ học sinh – viên chức.
Cuối năm 1927, bà Vinh cùng đồng đội mở hiệu sách ở phố Mê Linh, sau đó nhượng lại cho Tỉnh bộ cách mạng để trở thành đầu mối liên lạc, chuyển tài liệu, sách báo cách mạng từ nước ngoài về, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Hải Phòng và Việt Nam.
Giữa tháng 5/1930, bà Nguyễn Thị Thuận, một Đảng viên cộng sản sắp sinh, bị bắt và chuyển sang Nhà thương bản xứ. Nhờ sự giúp đỡ của cơ sở cách mạng, đặc biệt là bà Vinh, bà Thuận đã trốn thoát. Mật thám Pháp bắt giữ bà Vinh nhưng phải thả vì thiếu chứng cứ. Tuy nhiên, đến đầu tháng 11/1930, bà Vinh, bà Hiển bị bắt lại do có kẻ phản bội.
Khi thực dân Pháp nổ súng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược toàn miền Bắc, đánh chiếm Hải Phòng, nhiều thầy thuốc và nhân viên y tế tham gia bộ đội, cứu chữa chiến sĩ và người dân bị thương. Một số y tá, thầy thuốc còn bí mật đưa cán bộ vào nhà thương chữa bệnh, băng bó vết thương và giúp họ trốn thoát.
Sau khi Hải Phòng giải phóng năm 1955, chính quyền tiếp quản Nhà thương bản xứ, đổi tên thành Bệnh viện Hải Phòng. Trang thiết bị khi đó rất nghèo nàn, bàn mổ, bàn đẻ đều cũ kỹ. Mỗi khoa chỉ có 5 bơm tiêm, kim tiêm phải mài lại thường xuyên. Phòng X-quang có hai máy nhưng chỉ một máy hoạt động. Giường bệnh nhân là những khung sắt han gỉ, ván nằm bằng gỗ mọt và đầy rệp.
Trong khi đó, Hải Phòng là thành phố công nghiệp lớn, tai nạn lao động xảy ra thường xuyên. Công nhân lao động quá sức trong điều kiện thiếu thốn, dẫn đến ốm đau, bệnh tật.
Bệnh nhân ra vào liên tục, giường bệnh không đủ, bệnh nhân nhiễm trùng phải nằm chung phòng với bệnh nhân vô trùng.
Năm 1956, Chính phủ Tiệp Khắc viện trợ xây dựng bệnh viện đa khoa hiện đại tại Hải Phòng. Tháng 10/1956, đoàn chuyên gia y tế và xây dựng Tiệp Khắc đến Bệnh viện Hải Phòng khảo sát, lập đồ án thiết kế, vừa xây mới vừa cải tạo, trang bị nội thất. Bác sĩ Bradacék, Trưởng đoàn Tiệp Khắc, sau này trở thành giám đốc bệnh viện.
Năm 1957, công trường xây dựng bệnh viện được khởi công. Ngoài gạch, cát, đá, sỏi, gỗ, xi măng và 300.000 công xây dựng của Việt Nam, Tiệp Khắc còn viện trợ thép, tấm lợp, gạch men, kính và toàn bộ trang thiết bị y tế hiện đại.
Công trình tiêu tốn 5 tỷ đồng (thời giá 1959), trong đó 3 tỷ là máy móc y tế, thiết bị, vật liệu do Tiệp Khắc cung cấp. Sau gần hai năm xây dựng, bệnh viện khánh thành, đổi tên thành Bệnh viện Tiệp Khắc – mô hình kiểu mẫu của ngành y tế miền Bắc.
Sau ngày thống nhất, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp bước vào giai đoạn đổi mới, được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại. Sự hỗ trợ quốc tế từ Tiệp Khắc, Pháp, Phần Lan không chỉ dừng ở viện trợ y tế mà còn có chuyên gia đào tạo, giúp bệnh viện nhanh chóng hiện đại hóa các chuyên khoa trọng yếu.
Trải qua 120 năm xây dựng và trưởng thành, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp hiện là cơ sở đa khoa hạng 1 tuyến thành phố, với 47 khoa lâm sàng, 11 khoa cận lâm sàng và 11 khoa phòng chức năng, cùng 2.180 y bác sĩ, nhân viên y tế giàu kinh nghiệm.
Hàng ngày, bệnh viện tiếp nhận trung bình 1.500 lượt khám ngoại trú và điều trị nội trú cho 2.000 – 2.400 người bệnh, không chỉ phục vụ nhân dân Hải Phòng mà còn cả người dân từ các tỉnh, thành phố lân cận như Quảng Ninh, Thái Bình. Bệnh viện đã làm chủ những kỹ thuật khó như phẫu thuật tim hở, thay khớp, nội soi ít xâm lấn, vi phẫu ghép chi thể đứt rời…
Trong hai năm 2023-2024, bệnh viện triển khai thành công 6 ca ghép thận, đánh dấu bước tiến mới trong điều trị cho người bệnh suy tạng giai đoạn cuối, mang lại hy vọng vượt qua căn bệnh hiểm nghèo.
Bác sĩ Thắng tự hào khẳng định: “Từ Nhà thương bản xứ, chúng tôi đã trở thành đơn vị hàng đầu của ngành Y tế Hải Phòng”.